Nên hay không nên sửa đổi Nghị định 20?

Thời gian gần đây, một số doanh nghiệp thông qua các kênh khác nhau gây sức ép, yêu cầu Bộ Tài chính (Chính phủ) sửa Nghị định 20 (NĐ20), cụ thể là Khoản 3 Điều 8 liên quan đến việc khống chế trần chi phí lãi vay.

Câu hỏi đặt ra là, có nên sửa NĐ20 hay không, và nếu sửa thì theo cách nào để chống được hành vi chuyển nợ tránh thuế, đồng thời đảm bảo được mục tiêu công bằng thuế và sự phát triển lành mạnh của hệ thống tài chính quốc gia trong dài hạn? Giới chuyên gia cho rằng, việc sửa đổi cần xem xét ở nhiều góc độ khác nhau.

PGS.TS Phạm Thế Anh, Giảng viên Đại học Kinh tế Quốc dân, mới đây đã có những phân tích liên quan đến vấn đề này.


Trốn thuế ngày càng tinh vi



CafeLand – Thưa ông, bối cảnh ra đời của Nghị định 20 là gì?


PGS.TS Phạm Thế Anh:

NĐ 20 ra đời xuất phát từ hiện tượng trốn tránh thuế TNDN ở Việt Nam đang diễn ra với quy mô ngày càng lớn, với tính chất ngày càng phức tạp, tinh vi.

Theo một báo cáo của Tổng Cục Thuế, chỉ tính riêng năm 2018, số doanh nghiệp vi phạm về thuế là gần 96.000 doanh nghiệp, gấp ba lần con số tương ứng của năm 2010. Tổng số thuế TNDN thu về được sau thanh kiểm tra là khoảng 7.145 tỉ đồng; số giảm lỗ là gần 41.000 tỉ đồng.

Keangnam – Vina, một doanh nghiệp 100% vốn của một công ty đa quốc gia của Hàn Quốc hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, kinh doanh bất động sản là một ví dụ điển hình của việc tránh  thuế thông qua chuyển lãi vay.

Thông qua hợp đồng vay vốn từ Ngân hàng Kookmin Bank, một đơn vị thành viên trong Tập đoàn Keangnam Hàn Quốc, Keangnam – Vina đã phải gánh chi phí lãi vay (với lãi suất lên tới 12%) và chi phí dàn xếp vốn lên tới trên 2.000 tỉ đồng.

Ngoài ra, công ty này còn chuyển giá thông qua việc thuê Keangnam Enterprise – cũng là một thành viên của Tập đoàn Keangnam Hàn Quốc, để làm tổng thầu EPC. Nhờ đó, Keangnam – Vina liên tục báo lỗ và không nộp thuế TNDN. Khoản lỗ này chuyển thành khoản lãi của Ngân hàng Kookmin Bank và Keangnam Enterprise ở Hàn Quốc nơi có thuế suất TNDN lũy tiến từ 10-22%.

Tránh thuế thông qua chuyển nợ/lãi vay không chỉ xảy ra ở các MNCs (công ty đa quốc gia – PV) mà còn cả với các công ty trong nước. Các tổng công ty/tập đoàn có xu hướng thành lập nhiều công ty thành viên để có thể dễ dàng điều tiết chi phí/lợi nhuận.


PGS.TS Phạm Thế Anh.

Thông thường, lợi nhuận sẽ được “điều tiết” về các doanh nghiệp thành viên hoạt động trong ngành nghề/địa bàn ưu tiên hoặc mới thành lập còn đang trong thời kỳ được hưởng ưu đãi thuế. Chuyện vay nợ giữa công ty mẹ với các công ty con diễn ra khá phổ biến ở Việt Nam, EVN hay TKV là những ví dụ điển hình.

Nghị Định 20/2017/NĐ-CP ra đời với mục tiêu cao nhất là chống chuyển giá/chuyển nợ với mục đích trốn tránh thuế. Đối tượng điều chỉnh của NĐ 20 là các doanh nghiệp có giao dịch liên kết (tức là các công ty có quan hệ họ hàng như bố mẹ, con cái, anh chị em, con cháu trong họ).



Vậy phản ứng của các doanh nghiệp trong nước vốn dựa nhiều vào vay nợ như thế nào, thưa ông?

Điều 3 Khoản 8 của NĐ20 quy định tổng chi phí lãi vay phát sinh trong kỳ chỉ được khấu trừ thuế nếu khôngvượt quá 20% tổng lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh cộng với chi phí lãi vay và chi phí khấu hao trong kỳ (EBITDA).

Có thể hiểu mức trần 20% được cơ quan thuế tham khảo từ BEPS (Base Erosion and Profit Shifting) của các nước OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế).

Trong khi các MNCs “bình chân như vại” thì điều khoản trên của NĐ 20 gặp khá nhiều phản ứng từ các doanh nghiệp trong nước vốn dựa nhiều vào vay nợ, đặc biệt là các tập đoàn/tổng công ty nhà nước có giao dịch liên kết giữa các thành viên trong cùng tập đoàn/TCT.

Căn cứ vào những quan điểm của doanh nghiệp, những phản đối của họ có thể tóm tắt ở mấy điểm như sau:

Thứ nhất, một số doanh nghiệp cho rằng mức trần lãi vay/EBITDA này là quá thấp so với “đặc thù” của Việt Nam khi họ dựa nhiều vào vay nợ. Số liệu về hệ số nợ/vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp Việt Nam niêm yết trên sàn chứng khoán trong năm 2018 là vào khoảng 1,4, trong khi con số tương ứng ở các nước OECD là xấp xỉ 1. Do vậy, các doanh nghiệp cho rằng cần phải nâng mức trần khống chế lên 30% mới là hợp lý.

Thứ hai, tổng chi phí lãi vay ở Khoản 3 điều 8 được hiểu là tổng chi phí lãi vay phát sinh trong một kỳ tính thuế của doanh nghiệp có giao dịch liên kết, nhưng lại không được quy định rõ là nó có bao gồm cả chi phí lãi vay phải trả cho một bên thứ ba không liên kết (độc lập) hay không.

Thắc mắc của doanh nghiệp được Tổng Cục Thuế trả lời bằng Công văn 3790/TCT–DNL. Theo công văn này có thể hiểu rằng, nếu một doanh nghiệp chỉ có nợ với bên không liên kết, nhưng doanh nghiệp có giao dịch liên kết với một bên khác, thì vẫn không được khấu trừ lãi vay nếu vượt ngưỡng.

Trong khi đó, một doanh nghiệp khác cũng chỉ có nợ với bên không liên kết, nhưng doanh nghiệp này không có giao dịch liên kết với một bên nào khác, thì sẽ không chịu sự điều chỉnh của NĐ 20, và do đó sẽ được khấu trừ hoàn toàn lãi vay. Tức là, một doanh nghiệp bất kể có giao dịch liên kết với ai, nhưng nếu có chi phí lãi vay ngay cả với một bên chả có quan hệ gì, thì vẫn không được khấu trừ thuế nếu vượt ngưỡng.

Thứ ba, nhiều công ty trong giai đoạn đầu mới thành lập thường bị thua lỗ, tuy nhiên họ lại không được khấu trừ chi phí lãi vay do EBITDA của họ tính theo NĐ 20 bằng 0 hoặc âm. Khi đó, NĐ 20 vô tình lại làm tăng gánh nặng tài chính cho các công ty thua lỗ. Ngoài ra, những tập đoàn lớn đầu tư vào những ngành trọng điểm đòi hỏi số vốn đầu tư lớn cũng phản đối quy định này.

Thứ tư, các doanh nghiệp cũng cho rằng Điều 3 Khoản 8 của NĐ 20 có thể dẫn đến việc đánh thuế hai lần vào cùng một khoản thu nhập. Bên cho vay thu được tiền lãi vay và phải chịu thuế TNDN. Trong khi đó, bên đi vay cũng phải nộp thuế TNDN đối với phần chi phí lãi vay nếu vượt ngưỡng khống chế.


Sửa Nghị định 20 như thế nào?



Theo quan điểm của ông, nên hay không nên sửa NĐ 20 và nếu sửa thì nên theo hướng nào?

Trước tiên cần lưu ý rằng NĐ 20 không có mục đích cản trở việc vay nợ để thực hiện sản xuất kinh doanh, mà chỉ hạn chế việc vay nợ giữa các bên có liên kết nhằm chống hành vi trốn tránh thuế. Các doanh nghiệp vẫn có thể tiếp cận các nguồn vốn từ các bên độc lập theo giá thị trường, miễn là một số nội dung của NĐ có sự chỉnh sửa để tạo thuận lợi cho việc thực thi của các doanh nghiệp, đặc biệt là nội dung liên quan đến vay nợ từ một bên thứ ba độc lập.


Ảnh minh hoạ.

Dưới sức ép của doanh nghiệp, Chính phủ gần đây liên tục thúc giục Bộ Tài chính tiếp thu ý kiến để xây dựng nghị định sửa đổi. Tình hình cấp bách đến mức Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ còn đề nghị Bộ Tài chính trình Chính phủ sửa đổi theo quy trình “rút gọn.” Bản thân Bộ Tài chính có vẻ cũng “xuôi” theo hướng nâng mức khống chế tỷ lệ lãi vay/EBITDA được khấu trừ thuế từ 20% lên 30% – mức cao nhất theo khuyến cáo của OECD.

Cũng cần lưu ý, trong số những doanh nghiệp có tỷ lệ lãi vay/EBITDA > 20% thì không phải doanh nghiệp nào cũng có giao dịch liên kết. Do vậy, số doanh nghiệp thực sự chịu sự điều chỉnh của NĐ 20 trong khu vực FDI còn thấp hơn nữa. Khối này hầu như cũng không có phản ứng gì kể từ khi

Do vậy, muốn chống được hành vi trốn thuế rất phức tạp của khu vực FDI, và cả khu vực DN trong nước hiện nay, tôi cho rằng Chính phủ không nên nâng mức khống chế tỷ lệ lãi vay/EBITDA được khấu trừ thuế từ 20% lên 30% như đòi hỏi của một số doanh nghiệp.

Ngoài việc hạn chế hành vi trốn tránh thuế, việc hạn chế mức trần lãi vay được khấu trừ thuế còn làm tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp FDI vốn có lợi thế hơn trong việc tiếp cận nguồn vốn trên thị trường quốc tế hoặc từ các công ty mẹ ở nước ngoài.

Tương tự, nó cũng giúp làm tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp tư nhân với DNNN vốn có lợi thế hơn về khả năng tiếp cận các nguồn vốn. Do vậy, việc thắt chặt trần lãi vay được khấu trừ thuế từ các giao dịch liên kết chính là góp phần làm giảm những lợi thế của FDI với DN trong nước, của DNNN với DN tư nhân, tạo sân chơi bình đẳng hơn giữa các loại hình doanh nghiệp.

Thậm chí, trong tương lai Bộ Tài chính nên có lộ trình giảm tỷ lệ này xuống thấp hơn nữa, và tiến tới loại bỏ hoàn toàn việc khấu trừ lãi vay giữa các công ty liên kết. Ngay bản thân với các khoản vay độc lập, tỷ lệ lãi vay được khấu trừ thuế cũng cần được khống chế ở một mức trần nào đó để đảm bảo cấu trúc tài chính lành mạnh của các doanh nghiệp, và do vậy là hệ thống ngân hàng.

Ngoài ra, để giảm động cơ trốn tránh thuế qua kênh chuyển lãi vay trong dài hạn, chính sách thuế nên xóa bỏ sự phân biệt đối xử giữa vốn vay và vốn cổ phần. Đây cũng chính là khuyến cáo của Mạng lưới Công bằng Thuế toàn cầu.

Để tạo điều kiện cho doanh nghiệp tuân thủ tốt NĐ và tránh được những rào cản, những lưu ý/thay đổi sau nên được thực hiện:

Thứ nhất, mức khống chế trần chi phí lãi vay cần được áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp.

Thứ hai, chi phí lãi vay từ các hợp đồng vay nợ kí kết trước thời điểm NĐ20 có hiệu lực nên được khấu trừ toàn bộ.

Thứ ba, cho phép các doanh nghiệp chuyển phần chi phí lãi vay chưa được khấu trừ vào một số năm tiếp theo (có giới hạn). Điều này giúp các doanh nghiệp mới thành lập thường chịu lỗ trong giai đoạn đầu sau thành lập có thể giảm gánh nặng tài chính, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào những ngành đòi hỏi vốn đầu tư lớn và dài hạn. Thời hạn kết chuyển có thể là 5 năm và chỉ áp dụng với những doanh nghiệp mới thành lập hoặc có đầu tư lớn vượt một con số nhất định.

Thứ tư, chi phí lãi vay từ các giao dịch độc lập nên được miễn trừ hoàn toàn và không chịu sự điều chỉnh của NĐ20.

NĐ 20 nên giới hạn trong mục tiêu chống chuyển giá thông qua các giao dịch liên kết. Việc chống xói mòn cơ sở thuế và chống vốn mỏng nên được đề xuất trong một quy định khác để đảm bảo quy định đó bao phủ được mọi doanh nghiệp, bao gồm công ty trong các tập đoàn đa quốc gia, tập đoàn trong nước, và các công ty độc lập.



Xin cảm ơn ông!